Ngày 25/8, S&P Global Ratings đã thông báo nâng xếp hạng tín nhiệm dài hạn đối với ba ngân hàng của Việt Nam.

Theo đó, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank - Mã: VCB) từ BB lên BB+; Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank - Mã: TCB) từ BB- lên BB và Ngân hàng TMCP Xuất Nhập khẩu Việt Nam (Eximbank - Mã: EIB) từ B+ lên BB-. Cả ba ngân hàng đều có triển vọng ổn định.

Đồng thời, S&P giữ nguyên xếp hạng ngắn hạn ở mức B cho cả ba ngân hàng. Bên cạnh đó, S&P cũng điều chỉnh đánh giá rủi ro quốc gia của ngành ngân hàng Việt Nam (BICRA) từ nhóm 9 lên nhóm 8, phản ánh sự cải thiện trong môi trường kinh tế và quy định của Việt Nam.

Lý giải về việc nâng hạng Vietcombank, S&P cho biết, điều này diễn ra sau khi điều chỉnh xếp hạngĐánh giá Mức độ Rủi ro trong Hệ thống Ngân hàng (BICRA) của Việt Nam lên nhóm “8”.

Đối với Vietcombank, S&P nâng đánh giá hồ sơ tín dụng độc lập (SACP) từ bb- lên bb+, nhờ khả năng duy trì mức vốn mạnh và chất lượng tài sản vượt trội so với mặt bằng chung.

S&P cho biết kết quả này phản ánh quan điểm của S&P tin rằng Vietcombank sẽ duy trì mạnh mẽ mức vốn hiện tại trong vòng 24 tháng tới và duy trì chất lượng tài sản ở mức cao và tốt hơn các tổ chức đồng hạng. S&P ước tính tỷ lệ vốn điều chỉnh rủi ro của Vietcombank ở mức khoảng 5,8-6,3% trong vòng 2 năm tới, so với mức 5,9% vào cuối năm 2024.

Theo S&P, tỷ lệ nợ xấu Vietcombank có thể nhích lên mức 1,2% nhưng vẫn thấp hơn đáng kể so với mức trung bình ngành 4–5%. Ngoài ra, tỷ lệ dự phòng bao phủ nợ xấu trên 200% giúp ngân hàng có dư địa lớn để hấp thụ tổn thất tín dụng.

Tương tự với Eximbank, việc nâng hạng diễn ra sau khi S&P điều chỉnh xếp hạng BICRA của Việt Nam lên nhóm “8”.

S&P phân tích, chiến lược của Eximbank là tập trung vào phân khúc khách hàng bán lẻ (54% tổng dư nợ tính đến 31/12/2024) và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lợi nhuận của Eximbank hầu hết đến từ các phân khúc khách hàng mang lại lợi suất cao này.

S&P cho rằng tăng trưởng lợi nhuận của Eximbank mang tính bền vững. Các nỗ lực tái cấu trúc trong những năm gần đây cùng với các tiêu chuẩn thẩm định chặt chẽ sẽ giúp cải thiện lợi nhuận đồng thời giảm chi phí dự phòng tín dụng.

Đối với Techcombank, theo S&P, ngân hàng sẽ duy trì được mức vốn mạnh mẽ trong vòng 24 tháng tới. Ước tính tỷ lệ vốn điều chỉnh theo rủi ro (RAC) của Techcombank sẽ đạt 6,0%–6,7% trong hai năm tới, so với 7,1% vào cuối năm 2024.

Hãng xếp hạng tín nhiệm kỳ vọng hồ sơ rủi ro của Techcombank sẽ ổn định, bất chấp những bất định vĩ mô. Mặc dù tỷ lệ nợ xấu (NPL) của ngân hàng có thể tăng nhẹ lên khoảng 1,4% trong 12–24 tháng tới, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình toàn ngành.

Đối với những lo ngại về vấn đề thuế quan gần đây, S&P cũng nhận định Techcombank sẽ bị ảnh hưởng không đáng kể do tỷ trọng rất thấp đối với các khách hàng trong lĩnh vực xuất khẩu bị ảnh hưởng của vấn đề thuế đối ứng.

Tác động của thuế quan đến ngành ngân hàng trong tầm kiếm soát

Việt S&P nâng xếp hạngBICRA của Việt Nam phản ánh quan điểm cho rằng các tổ chức tài chính của Việt Nam sẽ có khả năng chống chịu tốt hơn trước những suy thoái trong tương lai, nhờ được hưởng lợi từ mức tăng trưởng GDP liên tục trên mức trung bình và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ổn định.

Tổ chức này kỳ vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ duy trì mức tăng trưởng kinh tế trên mức trung bình bất chấp khả năng suy thoái kinh tế toàn cầu. "Chúng tôi dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 5,9% vào năm 2025 và 6,0% vào năm 2026, vượt xa mức tăng trưởng 4,1% mà chúng tôi dự báo cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương".

Mặc dù bất ổn thương mại sẽ là lực cản đối với nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu của Việt Nam, S&P cho rằng việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và chính sách tiền tệ nới lỏng của chính phủ sẽ hỗ trợ tăng trưởng. Sự phục hồi mạnh mẽ của du lịch cũng sẽ góp phần vào sự tăng trưởng này.

Với ngành ngân hàng, tổ chức này đánh giá tác động trực tiếp của thuế quan sẽ nằm trong tầm kiểm soát khi mức thuế đối ứng thấp hơn đáng kể so với ngưỡng 46% được công bố vào tháng 4.

"Chúng tôi ước tính các khoản vay cho lĩnh vực xuất khẩu chiếm 3%-5% tổng dư nợ của ngành ngân hàng.", theo S&P.

Các chuyên gia S&P cho rằng điều kiện kinh tế thuận lợi sẽ hỗ trợ chất lượng tài sản. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) của ngành ngân hàng đã cải thiện đáng kể nhờ sự kết hợp của nhiều yếu tố: sự phục hồi của lĩnh vực bất động sản, việc cắt giảm lãi suất và hiệu ứng mẫu số của tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ, các cải cách thể chế đang diễn ra cũng sẽ hỗ trợ chất lượng tài sản.

Ngân hàng Việt cũng duy trì được nguồn tiền gửi ổn định qua các chu kỳ kinh tế, ít phụ thuộc vào các nguồn vốn bên ngoài và được hỗ trợ từ nhà điều hành.

Theo ước tính từ S&P, tỷ lệ tiết kiệm trong nước, dao động trong khoảng từ 35% đến 37% GDP trong năm năm qua, tạo ra một vùng đệm đủ lớn. Trong đó, các hộ gia đình vẫn là nguồn tiền gửi chính, chiếm trung bình 45%-50% tổng tiền gửi trong ngành ngân hàng.

Tuy nhiên, S&P cũng cảnh báo việc tăng trưởng tín dụng nhanh chóng có thể làm gia tăng rủi ro tín dụng trong nền kinh tế. Tỷ lệ tín dụng khu vực tư nhân trên GDP của Việt Nam đạt khoảng 136% vào năm 2024, cao hơn đáng kể so với các nước cùng mức thu nhập.